Con người tạo ra thức ăn, nhưng cũng có thể nói thức ăn tạo ra con người. “Hãy nói cho tôi biết anh ăn gì, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai!”. Khi được biết cụ thể về tình hình ăn uống của một người, ta có thể biết những điều khá cơ bản về người ấy như sức khỏe....
Thực đơn cho người cao tuổi
- Cập nhật : 09/06/2015
Với người già, nguy cơ bệnh tim mạch, đái tháo đường, máu nhiễm mỡ... rất cao nên cần quan tâm nhiều hơn trong chế độ ăn uống, sinh hoạt
Ở người cao tuổi, hàm răng dễ bị hư hỏng, lung lay nên cơ nhai yếu ảnh hưởng đến việc cắn, nhai thức ăn. Hơn nữa, khi đã lớn tuổi thì trương lực dạ dày giảm, sức co bóp yếu; dịch nước bọt, dịch vị và các men tiêu hóa giảm cả về số lượng và chất lượng...
Đó là những yếu tố làm cho người già ăn kém ngon miệng và tiêu hóa hấp thu giảm. Do hoạt động thể lực giảm, tiêu hao năng lượng ít hơn nên nhu cầu dinh dưỡng cũng giảm, vì vậy chế độ ăn ở người cao tuổi cần chú ý giảm năng lượng đầu vào.
Dùng món luộc thay nướng
Nếu ở người trẻ tuổi mỗi ngày cần 2.500 Kcal thì khi đã 60 tuổi chỉ cần 2.000 Kcal và 70 tuổi chỉ cần 1.800 Kcal là đủ.
Với người già, cần chia thức ăn thành nhiều bữa nhỏ, ăn chậm, nhai kỹ thức ăn. Nên tăng các thức ăn có nguồn gốc thực vật (vừng, lạc, đậu đỗ, rau xanh và quả chín), giảm lượng thịt và thay bằng cá. Chế biến các món hấp, luộc thay thế các món rán, nướng.
Thường xuyên thay đổi thực đơn, tránh đơn điệu, chú ý các món ăn mềm, thái nhỏ hầm kỹ, các món canh chất lượng dễ tiêu. Không ăn quá no, nhất là vào buổi tối, vì khi nằm, dạ dày căng to sẽ đẩy cơ hoành lên chèn ép cản trở hoạt động của tim.
Sau khi ăn xong, nên ngồi hoặc đi lại nhẹ nhàng trong vòng 30 phút nhằm giúp dạ dày nhào trộn tiêu hóa thức ăn để chuyển xuống ruột non dễ dàng hơn.
Ngoài việc cung cấp đạm trứng gà còn chứa nhiều canxi, sắt, vitamin A... - những chất rất cần cho người cao tuổi. Mặc dù trứng có nhiều cholesterol không tốt cho bệnh tim mạch, tăng huyết áp nhưng ở trứng cũng có lecithin giúp chuyển hóa cholesterol.
Chính vì vậy, để dung hòa giữa những ưu điểm và hạn chế của trứng đối với sức khỏe người cao tuổi, không nên ăn nhiều và cũng không nên kiêng hẳn. Tốt nhất là mỗi tuần nên có 3 quả trứng trong khẩu phần.
Thêm mỡ, giảm đường
Bớt ăn mặn Chế độ ăn hợp lý có tác động làm giảm huyết áp và phòng xơ vữa động mạch. Vì thế, người cao tuổi chỉ nên ăn lượng muối dưới 6 g/ngày. Nghiên cứu dịch tễ học cho thấy ở các quần thể dân cư có tập quán ăn mặn thì tỉ lệ người bị tăng huyết áp cao hơn hẳn so với các quần thể dân cư có tập quán ăn nhạt hơn. Cùng đó, cần bổ sung chế độ ăn giàu kali. Kali có nhiều trong các loại rau, hoa quả như rau dền, dưa chuột, bắp cải, súp lơ, su hào, xà lách, đậu cô ve, giá đỗ, cải soong, cà chua, cà rốt, cam, chanh, chuối, mận, mơ, dưa hấu... Việc sử dụng thức ăn giàu canxi (sữa và các chế phẩm của sữa) cũng rất quan trọng nhưng nên sử dụng sữa tách bơ. |
Người cao tuổi nếu không bị béo phì, không mắc bệnh tim mạch, mỡ máu không cao thì cần bổ sung mỡ hằng ngày. Với người VN, năng lượng do lipid cung cấp nên đạt từ 20% tổng số năng lượng khẩu phần.
Điều đó có nghĩa là hiện nay, bữa ăn của chúng ta còn thiếu chất béo, nhất là ở nhiều vùng nông thôn, do đó không nên quá đề cao dầu thực vật mà bỏ quên mỡ động vật.
Tỉ lệ dầu thực vật nên chiếm từ 40% - 50% tổng số lipid, vì mỡ động vật như lipid của sữa và trứng có giá trị sinh học cao, rất cần cho cơ thể. Mặt khác, trong dầu thực vật có nhiều axít béo chưa no nên cũng dễ bị ôxy hóa tạo thành những chất độc hại không tốt cho sức khỏe.
Đối với người cao tuổi, ăn nhiều đường không tốt vì sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh béo phì, đái tháo đường, tim mạch... Việc ăn bao nhiêu đường bột là vừa thì còn phụ thuộc vào nhu cầu năng lượng của mỗi người (tình trạng gầy béo, hoạt động thể lực nhiều hay ít...) nhưng với người cao tuổi nói chung, nên giảm lượng đường, bột trong khẩu phần.
Cha ông ta có câu “Già có bát canh như trẻ được manh áo”. Câu nói thể hiện người cao tuổi rất cần có một chế độ ăn nhẹ nhàng, không nên ăn uống “khô khan” quá, không nên uống quá nhiều nước nhưng cần uống đủ. Đối với người bình thường, trong một ngày lượng nước được đưa vào cơ thể khoảng 2.500 ml, trong đó nước uống khoảng 1.000 ml - 1.500 ml.
Thạc sĩ - bác sĩ Lê Thị Hải (Viện Dinh dưỡng Quốc gia)