U tủy được hiểu nôm na là những khối u nằm trong ống sống hoặc chèn ép vào trong ống sống. Bản thân chữ u tủy là không chính xác vì hầu hết u tủy mà chúng ta nói ở đây không xuất phát từ tủy.
Nhiều tác giả có xu hướng gọi là u trong ống sống. Nhưng chữ này cũng vẫn chưa đúng vì không phải tất cả các u mà chúng ta vẫn hiểu là u tủy đều nằm trong ống sống, chúng có thể là những u ở ngoài ống sống chèn ép vào trong ống sống. Trên thực tế thì có rất nhiều thuật ngữ y khoa không chính xác nhưng người ta vẫn dùng chúng và khi nghe thì những người trong ngành vẫn hiểu đúng nó là cái gì.
Để tránh nhầm lẫn, có nhiều tác giả phải gọi chi tiết là u tân sinh trong ống sống. Gọi là u tân sinh để cho thấy đây là u mới sinh ra chứ không phải là những cấu trúc tự nhiên trong cơ thể phì đại hay vỡ ra tạo thành một khối gây chèn ép vào ống sống. Ví dụ như trường hợp thoát vị đĩa đệm: đĩa đệm vỡ ra, có một mảnh rời hẳn ra, chui vào trong ống sống, đó cũng là một khối chèn ép vào tủy hoặc dây thần kinh trong ống sống nhưng vẫn không được gọi là u vì nó không phải là “tân sinh”, nó chỉ là một bộ phận của cơ thể bị vỡ ra. Tương tự vậy, có những bộ phận cũng phình to ra rồi chèn ép vào trong ống sống nhưng không gọi là u mà chỉ là sự phì đại, ví dụ như dây chằng phì đại hoặc hóa xương phì đại gây chèn ép vào tủy. Cũng phình lên nhưng không phải u do chỉ có các tế bào to lên hoặc biến thể, hoặc lắng đọng các chất khác chứ số lượng tế bào không tăng lên. Như vậy, u tủy là những u tân sinh (u sinh ra do sự gia tăng số lượng và có thể có sự thay đổi về bản chất của các tế bào) chèn ép vào ống sống và các thành phần thần kinh trong ống sống.
U ủy chiếm khoảng 15% đến 20% trong tổng số các u của hệ thống thần kinh gồm có u tủy, u não, u các dây thần kinh.
Tủy nằm bên trong của ống sống. Sát bề mặt tủy có một màng mỏng, trong suốt, bám chắc và bề mặt tủy gọi là màng nuôi. Sở dĩ màng này được gọi là màng nuôi do bên trong nó có nhiều mạch máu nuôi tủy. Bên ngoài của màng nuôi là màng nhện. Giữa màng nhện và màng nuôi là một lớp dịch trong suốt được gọi là dịch não tủy. Lớp dịch này làm thành một lớp áo bảo vệ tránh cho tủy bị va đập khi cột sống chuyển động. Bên ngoài màng nhện là màng cứng, một lớp bao dày và cứng, cách với thành xương của ống sống bởi một lớp mỏng mỡ. Các khối u nằm phía ngoài của màng cứng được gọi là u ngoài màng cứng, các u nằm bên trong màng cứng và bên ngoài màng nuôi gọi là u trong màng cứng ngoài tủy, còn các u nằm bên trong màng nuôi thì gọi là u nội tủy (hình 1). Các u vừa có một phần nằm trong ống sống ngoài màng cứng, một phần nằm ngoài ống sống (có thể trong ngực hoặc trong bụng) được goị là u hình quả tạ đôi (tiếng Anh gọi là u dumbbell) hoặc u hình đồng hồ cát. Cả những u có một phần nằm trong màng cứng, một phần nằm ngoài màng cứng cũng được gọi là u hình quả tạ đôi.
U tủy còn được phân loại dựa trên vị trí của nó dọc theo chiều dài của cột sống. U lỗ chẩm là u xuất phát từ vùng lỗ của xương chẩm thông xuống ống sống, bên dưới nữa gọi là u tủy cổ, u từ vùng đốt sống ngực 1 xuống đến khoảng đốt sống ngực 11 được gọi là u tủy ngực, từ đốt sống ngực 12 xuống đến hết đốt sống thắt lưng 1 được gọi là u chóp tủy, còn bên dưới nữa thì được gọi là u chùm đuôi ngựa. Sở dĩ gọi là chùm đuôi ngựa vì ở vùng này không còn tủy mà chỉ có những sợi dây thần kinh trải dài từ trên xuống như là một chùm các sợi lông đuôi ngựa.
Các u tủy còn được phân loại dựa vào nguồn gốc tế bào mà nó xuất phát. Các u xuất phát từ bao của rễ thần kinh gọi là u bao rễ thần kinh, u xuất phát từ màng mềm (là phần chuyển tiếp giữa màng nuôi và màng nhện) được gọi là u màng não, u xuất phát từ tế bào sao của tủy gọi là u tế bào sao…
Người ta còn chia ra u nguyên phát và u thứ phát. U nguyên phát là u xuất phát ngay từ các tế bào tại chỗ, còn u thứ phát là các u xuất phát từ chỗ khác rồi một số tế bào di căn đến nơi sau này có u thứ phát và phát triển lên thành u thứ phát.
Các u được gọi là lành là các u không có khả năng di căn đi chỗ khác, còn u ác tính là những u có khả năng di căn đi nới khác trong cơ thể. Về mặt vi thể, các u ác tính có tế bào dị dạng, sự phân chia các nhân tế bào lộn xộn trong khi các tế bào của u lành thì không dị dạng, nhân của chúng phân chia bình thường.
Việc hiểu biết các cách phân loại của u tủy giúp chúng ta hiểu được cách phát triển của các khối u và triệu chứng chúng có thể gây ra cũng như tiên lượng.