Đau lưng là hội chứng thường gặp do rất nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến nguyên nhân tại cột sống: thoát vị đĩa đệm, thoái hóa đốt sống lưng (hay gọi đau lưng ngoài căn nguyên cột sống) và đau lưng do tư thế. Sau đây xin giới thiệu bài viết về dự phòng đau lưng do tư thế.
Vì sao lại đau lưng do tư thế?
|
Đau lưng do lao động nặng. |
Về cấu trúc, giải phẫu định khu vùng thắt lưng có một dải dây chằng xuất phát từ cột sống thắt lưng chạy chếch ra phía bên dưới tới bám vào cốt mạc của mào xương chậu ở đoạn 1/3 sau. Dây chằng này rất chắc, được xem như một dây néo của cột buồm là cột sống thắt lưng. Nếu dây chằng này bị căng kéo quá mức sẽ bị suy kiệt lực, từ đó phát sinh hội chứng đau. Đây là loại đau lưng căn nguyên ngoài cột sống, được gọi là hội chứng thắt lưng - chậu. Hội chứng này thường bị bỏ qua với chẩn đoán nhầm là đau do thoái hóa đĩa đệm - cột sống hay đau dây thần kinh hông to. Người bệnh phải chịu đựng đợt đau cấp tính có khi phải cấp cứu hay đau dai dẳng kéo dài, mất khả năng lao động, gây tâm lý lo âu, thất vọng.
Hội chứng đau gần giống hội chứng đau thắt lưng hông, nhưng có nguồn gốc do viêm cốt mạc - dây chằng thắt lưng - chậu. Dựa trên công trình nghiên cứu hơn 163 bệnh án, lần đầu tiên vào năm 1979, G.G. Hirsehberg cùng với L. Proetscher. F. Natem đã đề xuất hội chứng thắt lưng - chậu. Do nhiều tác giả nghiên cứu quan tâm nên hội chứng này còn có những tên khác nhau như hội chứng đau dây thần kinh hông giả, đau chậu - đùi - cẳng chân - giả dây thần kinh hông to.
Làm thế nào để nhận biết bệnh?
Vì vùng này là khu vực tập trung, khu trú của nhiều bệnh khác nhau, dễ nhầm lẫn trong chẩn đoán nên cần hỏi tỉ mỉ và cẩn thận. Điều quan trọng là để bệnh nhân chỉ vị trí đau chính xác. Đặc trưng cho hội chứng này là đau ở phần thấp và thường là một bên của cột sống thắt lưng, lan xuống phần ngoài đùi, đôi khi lan xuống cẳng chân và vùng bẹn. Chú ý những yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh này là vẹo cột sống, quá ưỡn thắt lưng, đi khập khễnh, hai chi dưới không cân bằng, các di chứng của tai nạn, làm việc quá sức, mang thai hoặc quá trình thoái hóa đĩa đệm cột sống của người phụ nữ trên 50 tuổi, hoàn cảnh nghề nghiệp, đời sống liên quan.
Sờ nắn vào 1/3 sau của mào chậu là có thể tái hiện được đau và từ đó phát hiện sự tồn tại của viêm cốt mạc - dây chằng thắt lưng - chậu. Dùng ngón tay trỏ và ngón tay giữa quặp móc tỳ mạnh vào vùng vồng lên của cốt mạc dây chằng thắt lưng - chậu. Nếu gây được đau thì đó là triệu chứng đặc trưng của hội chứng thắt lưng - chậu.
Muốn phát hiện được triệu chứng này phải khám ở 3 tư thế: nằm sấp gù lưng, nằm ngửa co gối dạng chân và nằm nghiêng, để tạo tình trạng mềm giãn cơ dây chằng sau tới mức tối đa.
Sờ nắn kết hợp với khám đoạn chậu hông - cột sống chuyển động theo tư thế đứng, quan sát từ phía lưng, động tác gấp thân sẽ kéo theo sự căng giãn dây chằng thắt lưng chậu. Từ tư thế này xoay và nghiêng bên kết hợp với gấp nhằm tác động vào dây chằng thắt lưng- chậu một lực kéo mạnh gây đau ở phía bên có viêm cốt mạc - dây chằng thắt lưng - chậu. Sau đó phát hiện vùng đau ở phía ngoài chi dưới.
Ấn trên đường đi của cân đùi và cơ cẳng chân trước có thể tái hiện đau trội lên một cách tự nhiên. Định khu đau này là ở ngoài khớp, không liên quan đến dải da cảm giác chính xác nào mà là đau chậu hông - đùi - cẳng chân có điểm xuất phát đau bao giờ cũng từ mào chậu. Tới đây hội chứng thắt lưng - chậu được coi như là thể hoàn chỉnh của bệnh. Có trường hợp lan tràn đau chỉ tới vùng mặt ngoài đùi, nhưng hiếm thấy chỉ đau đơn độc vùng cơ cẳng chân.
Tất nhiên muốn xác định rõ thì cần chẩn đoán loại trừ những bệnh tương tự lân cận dễ nhầm với hội chứng thắt lưng - chậu.
Chụp Xquang thường có thể thấy những hình ảnh tổn thương khi chụp vùng lưng - chậu như: vôi hóa ở chỗ bám cốt mạc (gai xương) rất hay gặp (92%) nhưng có khi vôi hóa ở chính dây chằng thắt lưng - chậu; đậm đặc bờ điểm mào chậu. Hình “gai cây hồng” do cốt mạc bị kéo. Hình “mỏ chim” của vôi hóa dây chằng thắt lưng chậu và cùng kết hợp với đậm đặc bờ điểm mào chậu.
Những thể bệnh: Trên thực tế lâm sàng có một số thể không có đầy đủ những triệu chứng của viêm cốt mạc - dây chằng thắt lưng - chậu như thể chậu - đùi chỉ xâm phạm đến cân đùi. Thể chậu - đùi - cẳng chân có sự tham gia của cơ cẳng chân trước. Thể đau bẹn: đau thất thường không thành một dạng nhất định và không có dấu hiệu khám xét khách quan thuần nhất.
Phương pháp nào điều trị đau lưng do tư thế?
Điều trị cấp cứu đối với những thể cấp chuyển thành thể tăng cảm đau, giả liệt: cho điều trị triệu chứng như nằm nghỉ hoàn toàn, phong bế vùng viêm cốt mạc - dây chằng thắt lưng - chậu phối hợp với gây tê cục bộ dịch treo corticoid. Hirschberg đã dùng dung dịch dextrose 20% đạt kết quả tốt.
Phong bế phải đạt được yêu cầu là đưa thuốc tới những sợi dây chằng cốt mạc, ngoài ra cho kết hợp thêm các thuốc chống viêm không steroid và các thuốc giãn cơ.
Điều trị căn nguyên: Giai đoạn cấp chỉ qua mấy ngày là hết, do vậy cần điều trị sát với nguyên nhân của hội chứng. Dù nguyên nhân nào khi bệnh chuyển sang thể bán cấp, ít nhiều mạn tính và tái phát thì đều có thể dùng thuốc giảm đau và nằm nghỉ bệnh cũng tạm lui.
Đối với những ca tăng cảm đau tái phát dai dẳng mà điều trị nội khoa kém tác dụng thì phải chỉ định phẫu thuật cắt dây chằng - thắt lưng - chậu.
Điều đáng quan tâm là đòi hỏi sự nhẫn nại, tỉ mỉ của thầy thuốc khám bệnh và người bệnh cũng phải kiên trì phối hợp với thầy thuốc để xác định vị trí, cường độ, kiểu lan xiên của chứng đau.
Cần thật khách quan, không nên định kiến cho rằng tất cả những chứng đau ở khu vực thắt lưng này đều tất cả là do thoái hóa đĩa đệm - cột sống thắt lưng hay đau dây thần kinh hông to.
Để phòng tránh mắc hội chứng này, trong lao động nghề nghiệp buộc phải dùng lực kéo mạnh và dài hơi vùng thắt lưng, cần đặc biệt chú trọng đến tư thế vận động và điều hòa lực thích hợp với sức khỏe của cơ thể.