Hiện nay, rất nhiều loại thuốc được biết có thể gây ra các tác dụng phụ ở miệng như viêm loét miệng, khô miệng, sưng nề miệng, rối loạn vị giác, phì đại lợi, tổn thương tuyến nước bọt hoặc rối loạn vận động ở miệng… Cơ chế của các tổn thương này hết sức đa dạng và phức tạp, một loại tổn thương có thể gây ra do nhiều loại thuốc và theo nhiều cơ chế khác nhau, một thuốc cũng có thể gây ra nhiều dạng tổn thương khác nhau. Dưới đây xin đề cập đến 2 dạng tổn thương miệng do thuốc thường gặp nhất là viêm loét miệng và khô miệng.
Viêm loét miện
Viêm loét, sưng nề miệng có thể do thuốc gây ra. |
Viêm loét miệng do thuốc có thể biểu hiện đơn lẻ giống như viêm miệng áp tơ hoặc là một biểu hiện của các hội chứng dị ứng thuốc như hồng ban nhiễm sắc cố định, hồng ban đa dạng, hội chứng Stevens – Johnson hoặc Lyell.
Viêm miệng dạng áp tơ do thuốc thường xảy ra ở người già và ít khi tái diễn nhiều đợt trừ khi dùng lại thuốc. Nguyên nhân thường gặp nhất của dạng viêm loét miệng này là do các hoá chất chống ung thư như methotrexate, 5-flurouracil, doxorubicin, melphalan, mercaptopurine, bleomycin..., do các thuốc này làm đứt gãy liên kết giữa các tế bào niêm mạc miệng và ức chế sự nhân lên của các tế bào này. Viêm miệng do hóa chất chống ung thư thường xảy ra trong vòng vài ngày sau khi bắt đầu điều trị, có nhiều ổ và gây đau nhức khiến người bệnh sợ ăn, có thể dẫn đến suy kiệt. Những trường hợp nặng thường đòi hỏi phải điều trị giảm đau bằng các dẫn xuất thuốc phiện hoặc đòi hỏi phải thay thế hoặc ngưng dùng hóa trị liệu. Nhiễm trùng tại vết loét thường làm cho tình trạng viêm loét nặng lên và có nguy cơ gây nhiễm trùng huyết. Điều trị hóa chất chống ung thư kéo dài còn có thể gây suy giảm miễn dịch dẫn đến các nhiễm trùng cơ hội ở miệng như viêm miệng do virut herpes, cytomegalovirus, các loại vi khuẩn và nấm. Ngoài các hoá chất chống ung thư, một số thuốc khác cũng được ghi nhận gây ra viêm loét miệng là captopril, nicorandil, một số loại thuốc chống viêm giảm đau, thuốc chẹn bêta giao cảm (như labetalol), alendronate, mycophenolate, sirolimus, tacrolimus, các loại sulphonamide, barbiturate, sodium lauryl sulphate, nhóm ức chế protease (thuốc diệt virut), phenolphthalein, dapsone và tetracycline. Tổn thương viêm loét miệng do các thuốc này thường không đặc hiệu và nhẹ hơn so với viêm miệng do các hoá chất chống ung thư, cơ chế còn chưa được hiểu rõ. Một số thuốc như aspirin, ôxy già, viên kali... khi dùng tại chỗ (tiếp xúc trực tiếp với niêm mạc miệng) cũng có thể gây hoại tử niêm mạc dẫn đến viêm loét miệng tại nơi tiếp xúc với thuốc.
Hồng ban nhiễm sắc cố định do thuốc thường biểu hiện với các đám tăng sắc tố ngoài da tồn tại kéo dài nhiều tháng, nhưng một số trường hợp có thể xuất hiện các bọng nước đi kèm với tổn thương mắt và miệng. Viêm loét miệng trong hồng ban nhiễm sắc cố định khởi đầu thường có biểu hiện nề đỏ, sau đó xuất hiện bọng nước, các đám viêm trợt nông, khu trú và không đặc hiệu. Một bệnh nhân đã từng bị hồng ban nhiễm sắc cố định có viêm loét miệng do một loại thuốc, nếu dùng lại chính loại thuốc đó có thể gây ra các ổ viêm loét miệng ở cùng một vị trí với lần loét miệng trước. Rất nhiều loại thuốc có thể gây ra hồng ban nhiễm sắc cố định, thường gặp nhất là paracetamol, phenobarbital, phenacetin, sulfonamide, tetracyclin và doxycyclin.
Một số hội chứng dị ứng thuốc có bọng nước như hồng ban đa dạng, hội chứng Stevens – Johnson, Lyell cũng thường có tổn thương viêm loét mắt, miệng đi kèm với các ban đỏ và bọng nước ngoài da. Các hội chứng dị ứng này thường xuất hiện sau dùng thuốc từ vài ngày đến vài tuần, loét miệng thường có nhiều ổ và lan xuống họng. Nguyên nhân thường gặp của các thể dị ứng này là các thuốc Đông dược, thuốc chống co giật (như phenobarbital, carbamazepine, phenytoin), kháng sinh (như sulphonamide, penicillin, rifampicin, fluconazole và vancomycin), thuốc chữa bệnh gout allopurinol.
Khô miệng do thuốc
Hơn 500 loại thuốc khác nhau được ghi nhận có thể gây biểu hiện khô miệng. Người già có nguy cơ cao nhất bị khô miệng do thuốc, nguyên nhân có thể do việc phải dùng đồng thời nhiều loại thuốc. Ngoài ra, thói quen hút thuốc lá, uống rượu, cà phê cũng có thể gây ra cảm giác khô miệng hoặc tăng nguy cơ khô miệng do thuốc. Khô miệng kéo dài có thể gây rối loạn vị giác, ảnh hưởng đến chức năng nói và nuốt.
Các thuốc thường gặp nhất gây ra biểu hiện khô miệng là nhóm thuốc chống trầm cảm (như imipramine, fluoxetine), thuốc an thần (haloperidol, aminazine), nhóm benzodiazepine (như diazepam, lorazepam), thuốc đối kháng phó giao cảm (như atropin), thuốc chẹn bêta giao cảm (như propranolol) và một số thuốc kháng histamine H1 và H2 thế hệ cũ (như clorpheniramine, cimetidine, doxepine). Bên cạnh đó, một số nhóm thuốc khác như omeprazole, thuốc ức chế protease (điều trị HIV), didanosine, trospium chloride, elliptinium, tramadol, một số thuốc kháng histamine H1 thế hệ mới, retinoid, thuốc kháng giáp trạng tổng hợp, chlorhexidine, các thuốc gây độc tế bào, thuốc ức chế men chuyển (như enalapril), chẹn kênh canxi (như nifedipine) và sulphonamide cũng đều được ghi nhận gây khô miệng trong một số ít trường hợp. Nói chung, các thuốc gây khô miệng chủ yếu qua 2 cơ chế là đối kháng phó giao cảm hoặc cường thần kinh giao cảm. Riêng các thuốc lợi tiểu có thể gây khô miệng do làm mất nước dẫn đến giảm sản xuất nước bọt. Khô miệng do thuốc thường hồi phục khi ngưng sử dụng thuốc.